Thương Vợ [Tú Xương] ❤ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Photo of author

By THPT An Giang

Chào mừng bạn đến với blog chia sẻ Trường THPT An Giang trong bài viết về ” Bài thơ thương vợ của tú xương “. Chúng tôi sẽ cung cấp và chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức dành cho bạn.

Thương Vợ [Tú Xương] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Tuyển Tập Sơ Đồ Tư Duy, Giá Trị Nhân Đạo, Hiện Thực.

Nội Dung Bài Thơ Thương Vợ

Trong thơ ca trung đại, có thể xem Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất của Tú Xương viết về vợ. Bài thơ chứa chan tình yêu thương nhà thơ dành cho người vợ chịu thương chịu khó. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Thương Vợ đầy đủ bên dưới.

Thương VợTác giả: Tú Xương

Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.Một duyên hai nợ, âu đành phận,Năm nắng mười mưa, dám quản công.Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:Có chồng hờ hững cũng như không!

Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm 🌿Thu Vịnh Nguyễn Khuyến🌿 Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật

Về Nhà Thơ Tú Xương

Thohay.vn xin tổng hợp cho bạn đọc những thông tin chính Về Nhà Thơ Tú Xương.

  • Trần Tế Xương (1870 – 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
  • Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống nho học, từ nhỏ ông đã nổi tiếng rất thông minh, có tài đối thơ rất hay khiến ai ai cũng phải thán phục.
  • Trần Tế Xương cưới vợ và sinh được 8 người con – 6 trai và 2 gái. Cuộc sống của gia đình ông rất khó khăn vì con đông, nhà nghèo, công việc lại không ổn định nên mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay vợ ông – bà Phạm Thị Mẫn hay còn gọi bà Tú chăm lo và quán xuyến.
  • Trần Tế Xương sáng tác trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,…
  • Sáng tác của Trần Tế Xương gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời.
  • Một số tác phẩm tiêu biểu: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ…

Đừng bỏ lỡ tác phẩm💚 Thu Ẩm Nguyễn Khuyến 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất

Về Tác Phẩm Thương Vợ

Về Tác Phẩm Thương Vợ, đây là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự.

Bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương thể hiện một cách chân tình, hóm hỉnh thái độ của nhà thơ đối với người vợ tần tảo của mình. Bài thơ ngợi ca đức hy sinh của những người phụ nữ và sự cảm thông thấu hiểu của người chồng. Đó là tiếng lòng, tình cảm mà Tú Xương dành cho vợ, người luôn bên cạnh Tú Xương vượt khó vượt khổ để giúp Tú Xương đứng lên. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thương Vợ

Mời bạn đọc cùng khám phá Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thương Vợ nhé.

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt).

Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

Vợ ông là Phạm Thị Mẫn, quê ở Hải Dương. Là người vợ hiền thảo. Bà có với ông 8 người con. Trong hoàn cảnh sống nghèo khổ, thất bại trên đường công danh, nhà thơ và các con phải sống nhờ vào sự tần tảo của bà Tú.

Cảm thông với vợ, Tú Xương đã làm cả một chùm thơ tặng vợ như: Văn tế sống vợ, Tết dán câu đối,… Bài thơ Thương vợ là một trong những bài thơ ấy.

Chia sẻ cho bạn đọc bài thơ🌱 Câu Cá Mùa Thu 🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thương Vợ

Tiếp theo là Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thương Vợ.

Nhan đề “Thương vợ” thể hiện một đề tài mới lạ, khác thường trong thơ trung đại, thể hiện sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương.

Nhan đề “Thương vợ” còn chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở nội dung bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách.

Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Thương Vợ

Cùng tìm hiểu Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Thương Vợ sau đây.

Giá trị nội dung

  • Xây dựng thành công hình ảnh của bà Tú – một người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh, đã gánh vác gia đình với những gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên đôi vai gầy. Đồng thời, thông qua đó, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình thương yêu, quý trọng người vợ của Trần Tế Xương
  • Ẩn đằng sau hình ảnh của người vợ tảo tần sớm khuya ấy là hình ảnh của ông Tú với đầy những tâm sự. Bà Tú hiện lên càng đảm đang, tháo vát vất vả bao nhiêu thì ông Tú lại càng nhỏ bé, nhạt nhòa, vô dụng bấy nhiêu. Đây chính là sự bất lực của người trí sĩ đương thời trước dòng đời nổi trôi và xã hội quan liêu thối nát.

Giá trị nghệ thuật

  • Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt bình dị, tự nhiên và giàu sức biểu cảm; cảm xúc chân thành tiêu biểu cho thơ trữ tình của Trần Tế Xương
  • Vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò và cách nói của văn học dân gian trong việc khắc họa hình ảnh của bà Tú
  • Hình ảnh của bà Tú được nhắc đến với giọng điệu ngợi ca, đầy yêu thương còn hình ảnh của tác giả ẩn đằng sau đó lại được nhắc đến với giọng điệu trào phúng, bất lực
  • Kết hợp ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ đời sống.
  • Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm.

Giới thiệu đến bạn đọc🌱 Tự Tình [Hồ Xuân Hương]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Giá Trị Nhân Đạo Của Thương Vợ

Các Giá Trị Nhân Đạo Của Thương Vợ đó là:

  • Bày tỏ niềm cảm thương chân thành trước nỗi vất vả của bà Tú
  • Bày tỏ sự thấu hiểu, tình yêu thương hết mực của ông Tú với người vợ tảo tần.
  • Ca ngợi, trân trọng phẩm chất tốt đẹp của bà Tú: lòng yêu thương chồng con và đức hi sinh cao cả, không nghĩ gì cho riêng bản thân.
  • Lên án thói đời bất công.

Giá Trị Hiện Thực Thương Vợ

Tiếp theo là những Giá Trị Hiện Thực Thương Vợ.

  • Thời đại phong kiến với quan niệm trọng nam khinh nữ, người phụ nữ phải chịu đầy rẫy những bất công, oan trái của xã hội. Thế nhưng họ vẫn luôn xinh đẹp, thùy mị, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đến mọi người, nhất là gia đình.
  • Tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🔻 Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay

Bố Cục Bài Thơ Thương Vợ

Bố Cục Bài Thơ Thương Vợ gồm có 4 phần chính:

  • Hai câu đề: Giới thiệu công việc làm ăn và gánh nặng gia đình của bà Tú.
  • Hai câu thực: Cụ thể hoá nỗi vất vả của bà Tú
  • Hai câu luận: Đức hi sinh cao đẹp của bà Tú
  • Hai câu : Nỗi niềm phẫn uất của Tú Xương

Dàn Ý Bài Thơ Thương Vợ

Mời bạn đọc tham khảo Dàn Ý Bài Thơ Thương Vợ bên dưới.

Xem thêm:  Bài 1, 2, 3, 4 trang 152 SGK Toán 4 - Môn Toán - Tìm đáp án, giải bài

I. Mở bài

  • Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi
  • Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú
  • 4 câu thơ đầu đặc tả sự vất vả của người phụ nữ – người vợ thời xưa

II. Thân bài

1. Hai câu đề

  • Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”
    • Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác
    • Địa điểm “mom sông”:phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định

  • Lí do:
    • “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn
    • “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.

⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường. Nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang

  • Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

2. Hai câu thực

  • Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông”. Nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):
    • “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
    • Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát
    • “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

  • “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc
  • Buổi đò đông:. Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu
  • Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú. Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

III. Kết bài

  • Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của 4 câu đầu bài Thương vợ
  • Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xẫ hội hôm nay

Mời bạn xem thêm🌷Mùa Lá Rụng Trong Vườn 🌷 phân tích đầy đủ nhất

Sơ Đồ Tư Duy Thương Vợ

Đừng bỏ lỡ các Sơ Đồ Tư Duy Thương Vợ sau đây nhé.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🌼Chiếc Thuyền Ngoài Xa🌼 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất

Cuối cùng, Thohay.vn xin chia sẻ cho bạn đọc thêm 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất.

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Đặc Sắc – Mẫu 1

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả. Lại thêm ông Tú nữa thì gánh nặng gấp đôi.

Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động. Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt). còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú.

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú. Vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú. Nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Tiêu Biểu – Mẫu 2

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu nặng.

“Thương vợ” là một bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Đây là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người đàn bà:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được!

Xem thêm:  Download vở tập tô bảng chữ cái Tiếng Nhật PDF (đầy đủ)

Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực.

Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồ, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

“Một duyên hai nợ, âu đành phận,Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình.

“Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.

Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò” … đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận.

Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!

Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa).

Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất – Mẫu 3

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.

Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm.

Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

Quanh năm buôn bán ở mom sông.

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian.

Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng.

Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhơ lấy câu này/Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy.

Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn.

Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).

Xem thêm:  Phân tích khổ 2, 3 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (13 mẫu)

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công

Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy.

Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều.

Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rửa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:

Có chồng hờ hững cũng như không

Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách.

Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Nổi Bật – Mẫu 4

Niềm xót thương dành cho những người phụ nữ vốn là tiếng lòng trải suốt mọi không gian, thời gian. Trong những câu ca dao, họ đã từng ví mình với “trái bần trôi” để cất lên tiếng hát than thân về số phận bấp bênh. Và ở Tú Xương, những dòng “Thương vợ” mà ông viết cho bà Tú đến nay vẫn có sức hấp dẫn lay động người đọc bởi tình yêu thương và sự biết ơn sâu sắc.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng”

Trong thời buổi khốn khó, bà Tú phải đảm đương vai trò trụ cột của gia đình bằng việc bán hàng ở mom sông. Công việc ấy diễn ra “quanh năm”, chẳng trừ ngày nào, bất kể mưa nắng. “Quanh năm” là quanh năm suốt tháng, bất kể nắng mưa, nỗi nhọc nhằn của người vợ vì thế cũng lớn dần theo.

Thêm vào đó, nơi bà Tú buôn bán không phải nơi phố chợ sầm uất mà là ở “mom sông”, nơi chứa đựng biết bao nguy hiểm. Ông Tú một đời mải chuyện học hành, thi cử, chỉ mình bà Tú lo gánh nặng mưu sinh. Nhưng vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”. Cách đếm con, đếm chồng có phần lạ đời ấy là nỗi niềm chua chát của ông Tú.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông”

Sự tảo tần, vất vả của bà Tú khiến nhà thơ gợi nhớ đến hình ảnh đầy thân thương của con cò trong ca dao:

“Cái cò lặn lội bờ sông,Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Giữa cái rợn ngợp của không gian: “khi quãng vắng”, hình ảnh thân cò hiện lên thật nhỏ bé, đơn côi. Câu thơ đảo động từ “lặn lội” lên đầu lại càng gợi cảm giác xót xa, thương cảm bởi thân phận hẩm hiu của “thân cò”, cũng là thân phận của người phụ nữ.

Đi liền với sự biết ơn còn là những dòng thơ thầm kín ca ngợi đức tính đảm đang và hy sinh của bà Tú:

“Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công”

Vợ chồng gắn bó với nhau bằng cái duyên, cái nợ. Ở đây, nợ nhiều hơn duyên nhưng bà Tú chẳng một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận số phận vì chồng, vì con. Một, hai rồi năm, mười, các số từ cứ tăng tiến dần như muốn làm nổi bật sự vất vả và đức hi sinh thầm lặng của bà Tú.

Nỗi tự trào được Tú Xương bật lên ở hai câu cuối khi chửi đời và chửi cả mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không”

Nhà thơ như nhập vào nỗi khổ của bà Tú để lên án thói đời bạc bẽo đã làm khổ đời bà. Đời bạc đày ải người vợ hiền đã đành, nay cả chồng cũng vô tâm, hờ hững. Câu thơ chửi đời đã chứa đầy căm phẫn nhưng khi tác giả tự phán xét, lên án bản thân mình còn cay đắng, chua xót hơn.

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ấn Tượng – Mẫu 5

Bài “Thương vợ” thuộc thể loại thơ trữ tình, bộc lộ tình thương yêu lẫn quý trọng người cần cù, đảm đang, chịu thương chịu khó. Tác giả dựng lên bức chân dung người vợ đảm đang thành hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ truyền thống Việt Nam tháo vát và giàu đức hi sinh.

Bài thơ được mở đầu khá ấn tượng, bằng cái vòng thời gian khép kín “quanh năm” của người đàn bà buôn bán, tảo tần lại gói trong một không gian nhỏ hẹp “mom sông”, vì hai chữ “chồng – con”:

Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng

Hơn thế nữa, cái “danh” bà Tú quả cũng xứng với “cành vàng”. Thế mà, trong buổi lao lụng, phải mua bán trong cảnh chen chúc thì quả là đáng thương. Ấy vậy mà bà Tú cũng chỉ “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ” là nuôi đầy đủ (không thiếu thốn), hay nuôi chỉ vừa đủ.

Thế cho nên, bà Tú không biết từ lúc nào đã hóa thân thành: “Thân cò” để lặn lội nơi sóng nước eo sèo, nơi quãng vắng thưa người, đã gợi lên nỗi đau thân phận:

Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ thứ ba, với thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, đã gợi rất nhiều đến hình ảnh con cò trong ca dao:

Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non (Ca dao)

Bà Tú hẳn là không khóc nỉ non như người đàn bà trong câu ca dao kia. Nhưng ai dám bảo bà chưa từng khóc trong lòng, ở cái chốn “eo sèo” buổi “đò đông” ? Danh phận một bà Tú, lại như thân cò nơi quãng vắng đã gợi lên sự hẩm hiu, vất vả, đơn chiếc, lại phải mặc cả buôn bán khi đò đông thì hàng hiếm.

Tú Xương “gợi nhờ” gánh nặng lên vai người vợ, còn mình mải vui chơi, hưởng lạc và “hư hỏng”.

Biết thuốc lá, biết chè tàuCao lâu biết vị hồng lâu biết mùi (Hỏi Ông Trời)

Tú Xương đã ái ngại để rồi sự cảm thông ấy đã đến chỗ cao trào của lòng thương và tự trách mình. Vì mang đến cho vợ thứ duyên nợ không trọn đạo. Câu thơ rơi vào chỗ luận lí về chữ “duyên” với nhiều tầng nghĩa:

Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công.

Duyên theo nghĩa của dân gian hay nghĩa triết học Phật giáo hoặc nói cách khác: Duyên trong “duyên phận”, hay duyên trong “duyên số”, thì trong văn cảnh này, đối với Tú Xương vẫn chỉ sự thiệt thòi về phía vợ. Tú Xương tự trách mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không.

Chữ “bạc” của Tú Xương dùng trong câu thơ chính là sự trách mình chửi mình. Nhưng lời trách, chửi ấy rất đỗi chân thành. Để rồi, Tú Xương đi đến sự chế giễu cái “vô tích sự” của mình. Ta cũng từng nghe Tú Xương có lần chế giễu cái “chức quan” tại gia, quanh năm chỉ được phép ra “chiếu chỉ” cho con và ăn lương vợ.

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợĐem chuyện trăm năm trở lại bàn. (Quan tại gia)

Thơ Tú Xương cay độc mà chân thành, trào phúng mà trữ tình, phong lưu mà chung thủy, chửi đời mà chửi mình, cười mình mà khóc mình, trong nỗi đau công danh lận đận, trong nỗi đau thân phận, trong nỗi đau cùng đường tuyệt lối của cảnh cơ hàn.