Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Dàn ý + 14 Mẫu)

Photo of author

By THPT An Giang

[ad_1]

Nội dung đang xem: Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Dàn ý + 14 Mẫu)

TOP 14  mẫu Phân tích Vội vàng của Xuân Diệu mà Download.vn giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11. Với 14 mẫu phân tích bài Vội vàng giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần phân tích bài thơ.

Phan tich voi vang

Vội vàng là một bài thơ rất mới, mới về cả cách nhìn nhận, quan niệm thẩm mỹ, cho đến cách truyền tải cảm xúc, triết lý nhân sinh. Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân – tuổi trẻ. Để hiểu rõ hơn về nội dung, thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến, mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Dàn ý phân tích Vội vàng

I. Mở bài

  • Giới thiệu về nhà thơ Xuân Diệu
  • Giới thiệu về thi phẩm “Vội Vàng”.

II. Thân bài

1. Tình yêu tha thiết với cuộc sống nơi trần thế

– “Nắng” của mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, “hương” của mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.

– Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

– Điệp cấu trúc “Tôi muốn… để” kết hợp với động từ mạnh “tắt”, “buộc” kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.

=> Ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh.

– Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.

– Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.

– Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống.

– Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng.

=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.

– Hình ảnh so sánh độc đáo “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”: thiên nhiên được cảm nhận bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.

– Tâm trạng ngất ngây, mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”: câu thơ bị ngắt làm hai, khiến cho niềm vui không trọn vẹn. Điều đó thể hiện dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

2. Quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian

– Ý thức về sự chảy trôi của thời gian: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

– Mùa xuân vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết.

– Chia ly cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian.

– Hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia cắt: Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành dừng lại.

– Từ “ôi” vang lên nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa hối tiếc lại vừa thúc giúc.

3. Khát vọng sống vội vàng, tận hưởng của nhà thơ

– Câu cảm thán “mau đi thôi” thể hiện sự tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống , tận hưởng thời gian và cuộc sống

– Khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được yêu thương: Ta muốn ôm

– Đối tượng muốn ôm:

  • Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
  • Mây đưa và gió lượn: Quấn quýt, giao hòa
  • Cánh bướm say với tình yêu
  • Non nước, cây, cỏ rạng

– Thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, hương thơm.

– Câu thơ cuối: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thể hiện khát vọng tận hưởng cuộc sống.

III. Kết bài

  • Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
  • Khái quát cảm nhận chung về bài thơ Vội vàng.

Sơ đồ tư duy Vội vàng

SDTD Voi Vang

Phân tích Vội vàng đạt điểm cao

Trong phong trào thơ Mới, ngoài cái kỳ dị bí ẩn nhiều đau thương của Hàn Mặc Tử, sự quê mùa chân chất của Nguyễn Bính, nỗi buồn mênh mang, ảm đạm của Huy Cận thì Xuân Diệu đã nổi lên như một hiện tượng độc đáo, đầy mới lạ và nhiều sức hấp dẫn. Ông đã mang đến cho cả thi đàn một luồng gió mới, trẻ trung, yêu đời, nồng nhiệt và đắm say, như một kẻ si tình đang vội vã khỏa lấp đi những nỗi trống rỗng, thiếu vắng trong lòng, một kẻ “tham lam” tận hưởng những màu sắc, hương vị bình thường giữa cuộc đời. Đọc thơ Xuân Diệu người nào chê thì phê phán đến bỏ, người đã thích thì ca ngợi hết lời, và những người thích thú ấy lại đa số là những người trẻ, dạt dào sức sống. Vội vàng là một trong những tứ thơ nổi bật và xuất sắc nhất của Xuân Diệu khi thể hiện được hầu hết phong cách sáng tác cũng như những quan niệm sống, những triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Trong bốn câu thơ đầu tiên Xuân Diệu đã bộc lộ cái tôi cá nhân của mình một cách rõ rệt và đặc sắc bởi những ước muốn kỳ lạ có phần hoang đường và nông nổi khi tác giả muốn “tắt nắng”, “buộc gió” những sự việc tưởng chừng như xa vời và không thể xảy ra. Đằng sau suy nghĩ táo bạo ấy là một tình yêu tha thiết với cuộc đời, vì yêu nên người thi sĩ luyến tiếc tất cả vẻ đẹp bình dị đang diễn ra ở cuộc đời này. Đối với Xuân Diệu màu nắng chói chang của mùa hạ hay nhàn nhạt của mùa thu đều thực đẹp và thực quý giá, mà bản thân Xuân Diệu muốn thứ nắng ấm áp ấy mãi được tồn tại để chiêm ngưỡng, tận hưởng.

Nhà thơ muốn “buộc gió” là bởi vào mùa xuân trăm hoa đua nở, hương sắc ngào ngạt, buộc gió để hương thơm của hoa lá, cây cỏ không bị phai nhạt, hư vô trong không gian. Có thể nói rằng cái tôi của Xuân Diệu được thể hiện một cách vô cùng độc đáo vừa ngây thơ, khát khao sở hữu như một đứa trẻ hồn nhiên lại cũng vừa táo bạo, mạnh mẽ khi muốn thay đổi cả tạo hóa. Tất cả những điều ấy đều thể hiện tấm lòng yêu tha thiết của Xuân Diệu đối với cuộc sống, với thiên nhiên mùa xuân, mà sâu xa là sự tiếc nuối, sợ hãi bản thân không so kịp với bước chân của tạo hóa, không thể tận hứng mà tận hưởng hết tất thảy những điều bình dị trong cuộc đời vốn còn nhiều tươi đẹp này.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Chính từ nhận thức mới mẻ rằng vẻ đẹp thực sự chính là xuất phát từ những điều bình dị, giản đơn xung quanh cuộc sống thường ngày chứ không phải ở một chốn bồng lai tiên cảnh nào xa xôi. Xuân Diệu đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân thực sinh động và hấp dẫn, bộc lộ rõ tình cảm nồng nàn, đắm say của ông đối với mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình bởi từng vần thơ của ông dù vui hay buồn vẫn luôn rất tình tứ, lãng mạn. Ở Vội vàng cũng thế, trong lúc sôi nổi, đắm say và nhiệt huyết nhất khi nhìn về cảnh sắc mùa xuân, ánh mắt của người nghệ sĩ cũng tràn ngập tình yêu, niềm hạnh phúc đã đầy. Điều đó thể hiện rõ trong từng câu thơ khi ở bức tranh thiên nhiên hầu như mọi cảnh vật đều có đôi có cặp, lãng mạn và tình tứ, ong bướm thì ngọt ngào đắm say tuần tháng mật. Hoa trong đồng nội xanh rì thực hòa hợp viên mãn, lá với cành tơ cũng lả lướt đón đưa, và khúc tình si của cặp yến oanh lại càng làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần rộn rã tươi đẹp.

Đặc biệt ở câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” lại càng làm cho bức tranh mùa xuân thêm phần lãng mạn, trong trẻo và ấm áp tình người. Hình ảnh hàng mi ánh lên màu nắng sớm là một hình ảnh đẹp và lãng mạn, khi Xuân Diệu đã khéo léo để con người xuất hiện và hòa nhập với thiên nhiên, yêu thiên nhiên một cách rất đỗi dịu dàng, đó có thể là một nàng thơ trẻ tuổi dạo bước trong khu vườn, cả người phủ một màu nắng nhàn nhạt, mà hàng mi cong vút lại bắt mắt hơn cả. Đó cũng có thể là bóng dáng người nghệ sĩ đang bận tận hưởng mùa xuân, trong cảm giác mơ màng, đôi mắt khép hờ hững khiến nắng ánh lên hàng mi. Chung quy lại dù hiểu theo cách nào Xuân Diệu cũng đã rất thành công khi đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên thực hài hòa, tràn đầy sức sống, cả sức sống của thiên nhiên lẫn sức sống của con người. Càng bộc lộ được tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.

Đến câu thơ cuối cùng triết lý nhân sinh sâu sắc của Xuân Diệu được bộc lộ một các tinh tế rằng “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”, như vậy đối với tác giả một ngày được sống, được tỉnh giấc chính là một niềm vui lớn, tựa như thần, như thánh ngự trước cửa. Và Xuân Diệu, bản thân ông chỉ mong mỗi ngày được sống hạnh phúc, được tận hưởng cuộc sống bình dị êm đềm, được sống giữa thiên nhiên xuân sắc, đó đã là điều hạnh phúc quá đỗi lớn lao, chứ chẳng mong cầu tìm bình yên, vui sướng giữa chốn bồng lai tiên cảnh, xa rời nhân thế. Từ đó cũng thấy được quan niệm sống thực tế, đơn giản, không mưu cầu những thứ cao xa, ngoài tầm với, mà trái lại Xuân Diệu hết sức trân trọng cuộc sống trước mắt, trân trọng từng giây phút tuổi trẻ giây phút được sống trên trần gian.

Câu thơ “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị, xưa nay người ta vẫn tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên bằng thính giác, xúc giác, thị giác, thì đến Xuân Diệu ông còn tận hưởng mùa xuân bằng cả vị giác. Vì quá đỗi yêu thích, quá đỗi khao khát vẻ đẹp của mùa xuân mà ông vừa thấy nó ngon ngọt, vừa muốn được tận hưởng được “hôn” vào mùa xuân. Đang trên đà cảm xúc thăng hoa tột bậc của sự sung sướng hạnh phúc, bỗng nhiên tâm trạng của thi sĩ chùng lại:

“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Xuân Diệu đang mơ màng trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân đậm sắc hương vị, thế nhưng giữa cái sung sướng ấy nhà thơ bất chợt dừng lại vội vã nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa xuân. Quả thực đó là một cách nghĩ vô cùng kỳ lạ và khó hiểu, thế nhưng chính cái sự ưu lo, tiếc nuối lạ lùng ấy lại là chi tiết cho thấy tấm lòng khao khát, trân trọng mùa xuân và tuổi trẻ của Xuân Diệu nó tha thiết, sâu đậm hơn bao giờ hết. Đồng thời cũng là cánh cửa để ở ra những triết lý nhân sinh mới mà tác giả muốn truyền đạt.

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

Xuân Diệu hiểu và nắm rõ được quy luật không thể thay đổi của tạo hóa “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”, thời gian thấm thoát thoi đưa, năm này qua tháng nọ, cứ lặng lẽ trôi đi mà không vì một ai mà dừng lại. Cùng với bước đi của tạo hóa tuổi xuân của con người cũng theo đó mà tàn phai, héo úa dần theo năm tháng, không một ai có thể chống lại bước đi của thời gian, cũng không thể sống mãi cùng năm tháng, tuổi trẻ qua đi, tuổi già ập đến, con người chẳng ai thoát khỏi một vòng sinh lão bệnh tử. Tác giả nghĩ đến mùa xuân qua đi rồi xuân lại về, một vòng tuần hoàn lặp lại mãi mãi, thế nhưng còn bản thân ông lại chỉ có một cuộc đời, một tuổi xuân duy nhất. Chính lẽ ấy Xuân Diệu đâm ra tiếc nuối và hờn giận “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Tác giả yêu cuộc sống, khao khát mùa xuân và tuổi trẻ đến độ hờn dỗi, than trách cả tạo hóa, thậm chí muốn ông trời cho mình thêm một thời thanh xuân tươi đẹp. Ấy rồi Xuân Diệu càng trở nên buồn bã, ảm đạm trong những vần thơ chứa đựng đầy nỗi tiếc nuối:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”,

Tác giả ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, của cuộc sống thế nên đối với ông việc tạo hóa tuần hoàn cũng chẳng có nghĩa lý gì khi cuộc đời chỉ có một, chẳng thể lặp lại lần nữa. Đồng thời cũng thể hiện được cá tính, cái tôi ngông cuồng, dám vượt lên để đứng ngang hàng cùng vũ trụ, đề cao bản ngã, khi nhận định rằng còn trời đất nhưng đã không còn bản thân mãi mãi, thể hiện sự mất mát sánh ngang với trời đất. Chính lẽ ấy, Xuân Diệu không kìm lòng được mà tiếc cả đất trời, tiếc nuối hết tất thảy những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống. Cái tấm lòng vừa bao la, vừa tham lam tiếc nuối của Xuân Diệu thật đáng yêu và cũng thật sâu sắc, khi đã mở ra trong lòng độc giả những quy luật tuần hoàn tàn nhẫn của tạo hóa, khiến chúng ta nhận thức được sự quý giá của tuổi trẻ, tạo động lực để con người ta sống có ý nghĩa hơn, tránh để lại nhiều tiếc nuối trong cuộc đời. Và bản thân Xuân Diệu cũng chính là người mạnh mẽ tìm ra giải pháp cho bản thân khi sớm nhận ra những quy luật của thời gian, ông vội vã lao vào sống, lao vào tận hưởng đến gấp đôi, gấp ba lần, như một kẻ đói đứng trước rừng cao lương mỹ vị.

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Câu thơ “Mau đi thôi/Mùa chưa ngả chiều hôm” chính là lời tự thúc giục, động viên bản thân, cũng như nhiều thế hệ trẻ phải nhanh bước chân chạy đua với thời gian mà tận hưởng của sống, tận hưởng những cảnh đẹp, ý vui ngay chính tại nhân gian này chứ không phải ở một nơi nào đó xa xăm. Tấm lòng khát khao, rạo rực của người nghệ sĩ như “muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, dành trọn hết tất cả những gì xanh tươi, trẻ trung trong vũ trụ, muốn được bay bổng cùng với “mây đưa, gió lượn”, muốn được đã đầy say đắm trong tình yêu và mật ngọt của tuổi trẻ. Tất cả những điều tuyệt vời ấy Xuân Diệu chỉ muốn gộp, muốn “thâu” hết lại trong một “cái hôn nhiều” đắm say, mơ màng và sâu sắc.

Lòng người nghệ sĩ chỉ muốn tận hưởng càng nhiều, nhiều hơn nữa, với ông bao nhiêu cái xinh đẹp của thời tươi cũng là chẳng đủ, ông muốn sống hai ba lần chỉ trong một đời người. Thế nên cái tốc độ, cái vội vàng, những cái mà ông muốn tận hưởng, muốn ôm trọn cũng gấp tới vài ba lần. Nếu có điều quở trách người ta chỉ dám quở: Xuân Diệu sao tham sống quá, tham tận hưởng cái cuộc đời vốn bình dị này quá mà đâu biết rằng đối với ông những thứ cây cỏ, ánh sáng của thế gian này lại chính là thứ quý giá và tươi đẹp nhất trên đời. Có vậy mới thấy Xuân Diệu trong thơ dường như muốn tận hưởng mãi, không có điểm dừng, thế nhưng ông lại cũng là người sáng suốt khi biết thế nào là hạnh phúc, biết đủ và biết kiếm tìm vẻ đẹp cuộc sống ở nơi nhân gian trần thế, chứ chẳng hão huyền tịm tận chín tầng mây như nhiều văn nhân, nghĩa sĩ xưa.

Câu thơ cuối bài “Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!” là một câu thơ giàu xúc cảm và rất tình tứ, thể hiện được cái lãng mạn vừa phóng khoáng vừa ngông cuồng, cũng như tình yêu mãnh liệt của Xuân Diệu đối với mùa xuân. Đối với ông chỉ cảm nhận, mắt thấy tai nghe còn chưa đủ, mà người còn muốn được cắn thử, nếm thử cái hương sắc tuyệt vời của mùa xuân, được tận hưởng một cách trọn vẹn nhất thì mới nguôi ngoai những nỗi tiếc nuối, hoang mang trong lòng, mới lấy lại được sự cân bằng trong những cảm xúc bâng khuâng vì sợ tuổi xuân trôi đi mất.

Xem thêm:  Viết đoạn văn chứng minh: Lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những người thân

Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ rất mới, mới về cả cách nhìn nhận, quan niệm thẩm mỹ, cho đến cách truyền tải cảm xúc, triết lý nhân sinh, tất cả đều được tác giả thể hiện một cách tinh tế, cũng vừa độc đáo với lối thơ tự do, khuynh hướng lãng mạn kiểu Pháp, cùng với hệ thống từ ngữ phong phú giàu sức gợi. Tác phẩm không chỉ bộc lộ những quan niệm mới mẻ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, mà còn mang đến cho người đọc cách nhìn nhận về cuộc sống, về việc tìm kiếm hạnh phúc, cũng như cách trân trọng và sống một cuộc đời có ý nghĩa, để tuổi xuân không bị lãng phí trong nhiều tiếc nuối.

Vội vàng phân tích – Mẫu 1

Xuân Diệu nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Vần thơ nào của ông cũng thấm đẫm lòng yêu, lòng thiết tha với cuộc sống. Đó là cuộc sống tươi non mơn mởn của thiên nhiên vạn vật. Vội vàng tuy chỉ có dung lượng khá nhỏ đề cập đến khung cảnh thiên nhiên, nhưng chỉ cần như vậy thôi ta cũng nắm bắt được trọn vẹn tinh thần, lòng yêu cuộc sống của ông.

Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ có lẽ mang nét độc đáo nhất trong bài, thể hiện mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc đặc biệt của Xuân Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn sóng đang trào dâng dữ dội trong lòng nhà thơ. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát vọng cháy bỏng của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh về khát vọng của mình. Sau điệp từ là những động từ có tính mệnh lệnh cùng những hình ảnh thuộc về tự nhiên và biểu tượng cho cái đẹp: “tắt nắng”, “buộc gió”. Ta đều biết rằng nắng và gió luôn tuân theo quy luật của tự nhiên khiến con người không thế chế ngữ được. Vậy mà ở đây, Xuân Diệu có khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm đoạt quyền của tạo hóa để níu giữ vẻ đẹp đất trời. Ông sợ gió cuốn đi hương thơm ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân sắc. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên là một điều phi lý bởi ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ cho vẻ đẹp trần gian mãi mãi mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi lí đi chăng nữa thì nó vẫn có cái đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn, luôn thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến.

Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa quả của động nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên mặt đất vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực đơn quyến rũ. Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống nơi thoát khỏi nơi trần thế, trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay Thế

Lữ từng viết:

“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”

(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)

“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”

(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)

thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông được xây dựng trên mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm thanh. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: “ong bướm” – “tuần trăng mật”, “hoa” – “đồng nội xanh rì”, “lá” – “cành tơ phơ phất”, “yến anh” – “khúc tình si”.

Xuân Diệu đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được liệt kê bằng hàng loạt tình tứ đậm nhạt khác nhau cùng cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân xưa thường chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới trong đó có Xuân Diệu lại huy động tất cả những giác quan để cảm nhận cảnh vật đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong cách nhà thơ.

Trong cảnh ấy có hình ảnh “tuần tháng mật” của loài ong bướm, chúng say mê trong mùa hoa tựa như con người đang chìm đắm trong niềm hạnh phúc ban đầu. Ở đây có hình ảnh “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ trung, phơi phới, hứa hẹn một mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho vẻ đẹp con người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị phá vỡ, chao đảo nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt… cái cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ.

Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi… cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” Và Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm ấy qua hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”.

Những tia nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của thiếu nữ đang chớp dưới hàng mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật nguồn nhựa sống mang đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được nhắc lại đến 5 lần khiến những câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện ra thiên đường trên mặt đất. Giống như Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”.

Xuân Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú, ông đã biến thành một hướng dẫn viên du lịch đắm chìm trong những lời giới thiệu để chào mời mọi người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng nhung, thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều thân quen ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu của người nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng. Được xem là: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:

“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng nay được Xuân Diệu khép lại bằng lối văn vô cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, tràn đầy ánh sáng, màu sắc, hương thơm đã trở thành “cặp môi gần” của người tình. Chỉ với một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác cho ta thấy tình yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng si của thi sĩ. Ông bị ảnh hưởng rất rõ rệt trường phái thơ tượng trưng Pháp, trong một bài thơ khác ông cũng đã vận dụng sự tương giao của các giác quan:

“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”

Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện rất rõ qua hai câu thơ:

“Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa” như ngắt làm đôi và cũng như phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng sung sướng là niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha, gắn bó. Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối, buồn đau bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Xuân Diệu luôn là con người như thế đấy! Trong lúc vui ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã phải thổn thức bởi những điều tiếc nuối. Cũng bởi vì vậy, mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân:

“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Đây là tâm trạng hoài cổ mà ta thường bắt gặp trong thơ của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây, sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và ám ảnh, nhà thơ không chỉ tiếc nuối những cái dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa qua mà Xuân Diệu đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái tim quá nhạy cảm với những chuyển biến của thời gian cũng là một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc, Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân thật nồng nàn, tha thiết.

Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống nơi thiên đường hạ giới mà thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh của thời gian qua 17 câu tiếp theo. Trước tiên đó là quan niệm hết sức độc đáo:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Từ trước đến nay thời gian luôn vận động theo đúng quy luật của tạo hóa và cũng có nhiều cách quan niệm về nó như: “thời gian thấm thoát thoi đưa”’ “thời gian như bóng câu vút qua cửa sổ”, “thời gian như nước chảy qua cầu”’… ngay cả Xuân Diệu cũng vậy, ông đã sử dụng nghệ thuật điệp từ, từ nhiều nghĩa và từ mang sắc thái tương phản để diễn tả sự trôi qua của thời gian, sự tàn phai của tạo vật. Người ta mừng vì mùa xuân tới thì Xuân Diệu trong niềm vui chào đón mùa xuân thoáng qua có một chút xót xa vì nó tới cũng là lúc tuổi xuân dần trôi qua mau. Xuân Diệu đã đối lập mùa xuân của đất trời với tuổi xuân của con người.

Nếu như mùa xuân của đất trời qua đi rồi lại trở về theo đúng vòng tuần hoàn của nó. Còn tuổi xuân của con người thì một đi không trở lại. Ngỡ như Xuân Diệu đưa ra điều phi lí nhưng thực ra hoàn toàn biện chứng và trong cái biện chứng ấy lại chứa đầy cảm xúc. Xuân Diệu từng viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” để rồi đến bài thơ “Vội vàng” thì triết lí nhân sinh gắn liền với cảm thức về thời gian một lần nữa được nhấn mạnh. Chính vì cảm nhận được tuổi xuân của con người một đi không trở lại nên thi nhân thấy tiếc nuối, buồn đau:

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”

Vẫn là những từ ngữ mang màu sắc tương phản, Xuân Diệu đã đi từ mùa xuân của thiên nhiên để mở ra mùa xuân của con người. Với giọng điệu như hờn giận, u hoài, Xuân Diệu đã đối lập cái vô hạn của đất trời với cái hữu hạn của đời người. Đất trời thì còn mãi nhưng tuổi xuân con người thì không, dường như thiên nhiên đã trở thành lực lượng đối kháng với con người. Và rồi Xuân Diệu còn say sưa tranh luận với quan niệm cũ về thời gian:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Xuân Diệu đã tạo nên thế đối lập giữa cá nhân nhỏ bé với sức mạnh vô thường của tạo hóa, thi nhân như nhận ra sự bất lực của mình khi muốn chiến thắng thời gian. Bởi vì dẫu vũ trụ là vĩnh viễn, dẫu thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ của con người “chẳng hai lần thắm lại”. Nhận ra cái yếu hạn trong sức mạnh của con người, Xuân Diệu như thở dài ở những câu thơ chất chứa nỗi buồn về sự bất lực trước quy luật tự nhiên, ý thức được điều đó, nhà thơ lại càng trân trọng tuổi xuân hơn và đây cũng là tiếng nói tiêu biểu của một tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.

Nguyễn Du từng viết:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Xuân Diệu ý thức được đời người quá ngắn ngủi nên ông đã nhìn bức tranh thiên nhiên mất tươi vui:

“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”

Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn tôi khiến thi nhân đau đớn, tiếc nuối khiến ông cảm thấy “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Ở đây, cuộc chia phôi như làm rớm máu cả thời gian, nó không diễn ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp sông núi”. Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ non, than vãn. Một ngọn gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp đến. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu. Cách cảm nhận thời gian của thi nhân là cách cảm nhận đầy tính mất mát, có được điều đó là do tác giả ý thức được cái tôi cá nhân một cách sâu sắc, ý thức về sự có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời và cũng do ông luôn nâng niu, trân trọng từ giây phút của cuộc đời nhất là những năm tháng tuổi trẻ:

Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

Với nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cách ngắt nhịp biến hóa, ý thơ như hóa lời giục giã với mọi người: hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân, để sống có ý nghĩa khi chưa mãn chiều xế bóng. Nỗi lo âu của nhà thơ về vòng quay của tạo hóa chợt bừng lên thành tiếng thôi thúc, gấp gáp: “mau đi thôi”. Tiếng gọi mãnh liệt ấy từ lâu đã vang vọng suốt những trang thơ của Xuân Diệu:

“Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”

hay:

“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”

Xưa kia nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết trong chùm thơ “Tiếc cánh”:

“Xuân xanh chưa dễ hai lần lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”

Những vần thơ ấy càng giúp người đọc thấy được ý thức về thời gian và tuổi xuân của thi sĩ Xuân Diệu. Nhận ra rằng chẳng thể sống mãi với thời gian vậy cớ gì ta không ngại, không tận hưởng cuộc sống bằng cả trái tim nồng cháy trước khi ta già nua cơ chứ?

“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

– Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !!

Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình đầy kiêu hãnh. Ông như muốn đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để ôm trọn trái đất này. Ta bỗng nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự”

(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)

Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp ngữ “tôi muốn” thì đến đây đã trở thành “ta muốn” nghe thật tự tin làm sao! Bởi vậy mà Viên Mai từng nói rằng: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Trong thơ của mình, Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi cá nhân, có lúc ông bộc bạch một cách chân thành:

Tôi chỉ muốn là một cây kim bé nhỏ”
Mà vạn vật là muôn đá nam châm”

có lúc ông khẳng định mình là người đứng đầu duy nhất:

“Ta là một là riêng là thứ nhất”

Như vậy trong thơ Xuân Diệu luôn thể hiện được cái tôi cá nhân tự tin và đầy kiêu hãnh. Ba từ “Tôi muốn ôm” như một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng tuôn trào, dào dạt tràn qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào một câu thơ ngắn như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy gợi cảm và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống. Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh sinh động, đẹp đẽ:

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 11: Tổng hợp những kết bài về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (18 mẫu)

“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều”

Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như những cơn sóng ào ạt nối tiếp nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả khát khao đến hàm hở cuồng nhiệt. Sau mỗi lần điệp lại đi liền với một động từ mạnh được sắp xếp theo trật tự tăng tiến: “riết”, “say”, “thâu”; cùng với đó là những hình ảnh nồng nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và gió lượn”, “cánh buồm với tình yêu”.

Thiên nhiên rực rỡ sắc màu say nồng và đầy quyến rũ lại tràn ngập trong hồn thơ Xuân Diệu. Những hình ảnh ấy làm đoạn thơ đầy sinh khí và làm sống lại không khí tươi vui của toàn bài thơ. Trời xuân thì non tơ, tình xuân thì nồng nàn khiến nhà thơ trở nên “tham lam”, dường như lúc nào cũng muốn khát khao thêm:

“Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”

Sự kết hợp giữa những từ “no nê”, “đã đầy” và điệp từ “và” đã thể hiện cảm xúc ham muốn đến tột cùng trong tâm hồn thi sĩ. Ở đây không chỉ là sự tận hưởng tinh thần mà còn là tận hưởng theo kiểu vật chất không có điểm dừng. Với ông, cuộc sống trần thế như bày ra cả một bàn tiệc đầy những hình ảnh non tơ và đầy hương sắc vì vậy Xuân Diệu đã khát khao đến tột cùng đúng như phong cách Xuân Diệu – một cái tôi không bao giờ chấp nhận sự lưng chừng, lỡ cỡ.

Với những khát khao ấy, nhà thơ đã nhìn mùa xuân giống như con người và thốt lên một tiếng kêu thể hiện niềm yêu đời, khát khao chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:

“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

“Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như vang lên không dứt. Ông khát khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng” chứ không phải là “xuân xanh” như trong thơ Nguyễn Bính:

“Mùa xuân là cả một mùa xanh”

Xuân hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp nên mùa xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử dụng từ ngữ táo bạn, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn không có giới hạn. Đứng trước sự hấp dẫn của mùa xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng yêu thiên nhiên đã đi đến một cử chỉ táo bạo nhưng cũng thật đáng yêu. Ta nhớ tới những câu thơ của Anh Thơ trong bài “Hôn con”:

“Mặt trăng của mẹ
Mẹ nâng trên tay
Mặt trăng tươi thế
Mẹ cắn vào đây”

Còn Xuân Diệu, ông từng định nghĩa mình là: “kẻ đưa răng bấu mặt trời”, một thi sĩ từng “ngoạm sự sống làm êm đói khát” đã thể hiện tình yêu cuồng nhiệt, si mê cuộc sống đúng như Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết”

Nếu như Huy Cận, Chế Lan Viên hay Hàn Mạc Tử đều cùng nhau thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ thì “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy… Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh) Cũng là nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy, ngọt ngào, hồ hởi và háo hức, đó là sự tiếc nuối trước dòng chảy không ngừng của thời gian, là sự cô đơn giữa dòng đời của cái Tôi nhỏ bé đã tạo nên một hồn “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

“Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,… và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”.

Phân tích Vội vàng – Mẫu 2

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này – Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”. Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Về cấu tứ bài thơ: Bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn: Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống “vội vàng”. Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.

Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người – nhất là tuổi trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống.

Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân – cái đẹp.

Tác giả đã dùng những động từ mạnh: tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống là một khát vọng rất nghệ sĩ – thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả.

Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh ri
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà! Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:

Tà áo mới cũng say múi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.

(Xuân đầu)

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui.

Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa.

Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ: này đây dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ: tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê.

Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: “Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang”, nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phài, cùng một lúc nhà thơ vừa được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ “nghĩa là” như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật phũ phàng: Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho cái đẹp – cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,…
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân – tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:

Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ “Ta muốn ôm” đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống… mơn mởn… Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ “Ta muốn” diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:

Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức mọi giác quan.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân – tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ – một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo.

Phân tích Vội vàng Xuân Diệu – Mẫu 3

“Vội vàng Xuân Diệu” là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với từng dấu hiệu của sự sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian của Xuân Diệu. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, Xuân Diệu càng lo sợ trước sự phai tàn của vẻ đẹp, của sự sống bấy nhiêu. Không thể thay đổi quy luật chảy trôi của thời gian nên người thi sĩ ấy đã chủ trương sống vội, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khắc của thời tươi.

Ở Xuân Diệu chúng ta thường bắt gặp một cá tính thơ khoáng đạt, khác biệt và đầy sáng tạo có thể nói “có một không hai” trong thơ ca Việt Nam. Xuân Diệu đã mở màn cho “Vội vàng” bằng bốn câu thơ ngũ ngôn mà nhìn qua tưởng chừng “lệch nhịp” với toàn bài:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Ngay trong khổ thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng táo bạo đến hoang đường. Nắng và gió đều là những hiện tượng thuộc về tự nhiên và “vận hành” theo quy luật của tự nhiên. Muốn tắt nắng, buộc gió chẳng phải quá phi lí, ngông cuồng sao?

Tuy nhiên ẩn sâu trong khát vọng ngông cuồng, táo bạo ấy lại là một tình yêu cuộc sống đến tha thiết, khắc khoải. Xuân Diệu muốn tắt nắng để màu đừng nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay, vậy là người thi sĩ muốn lưu lại những vẻ đẹp tự nhiên, thanh khiết của cuộc đời để mãi lưu giữ khoảnh khắc của thời tươi.

Bằng đôi mắt “xanh non biếc rờn” cùng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện được những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất nơi trần gian:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”

Xuân Diệu đã mở ra bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” gợi ra được cái háo hức, rạo rực của người thi sĩ khi giới thiệu về vẻ đẹp nơi trần gian – nơi người thi sĩ đắm say với một tình yêu mãnh liệt.

Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường.

Thiên nhiên, sự sống trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng tươi tắn, mời gọi như vậy. Tuy nhiên nét đặc sắc nhất trong cảm nhận của người thi sĩ phải để đến cách so sánh “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Vậy là trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân cũng tươi ngon, hấp dẫn khó cưỡng như một cặp môi gần.

Lấy con người là chuẩn mực đánh giá cho những vẻ đẹp của tự nhiên không chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ mà còn thể hiện quan niệm mới trong sáng tác. Nếu người xưa lấy thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người thì nay Xuân Diệu đã đi ngược lại với quan niệm bất thành văn ấy để đặt con người ở vị trí trung tâm của vũ trụ và khẳng định con người mới là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp.

Cùng với trái tim luôn rạo rực, nóng bỏng với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu luôn thường trực tâm trạng lo âu, phấp phỏng trước những bước đi của thời gian. Khi người ta càng yêu, càng trân trọng thì càng lo sợ nó sẽ tan biến trong cái vô hình, có lẽ Xuân Diệu cũng vậy, càng yêu cuộc đời thì càng bất an, lo lắng:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian”

Bằng những cảm nhận nhạy bén của mình, Xuân Diệu có thể nhìn thấy những dấu hiệu tàn phai của sự sống ngay ở thời tươi. Xuân đang tươi non, nở rộ đấy nhưng chính trong vẻ đẹp của thời tươi ấy lại là mầm mống của sự tàn phai, lụi tàn “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”, và tuổi trẻ cũng vậy, một khi trôi qua sẽ không bao giờ quay trở lại “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 11: Phân tích 4 câu thơ đầu bài Vội vàng (2 Dàn ý + 6 mẫu)

Xuân Diệu đã gắn tuổi trẻ với mùa xuân và đưa ra quan niệm của mình về thời gian: Tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu tuy đẹp nhưng không phải mãi mãi, vô hạn mà hữu hạn, ngắn ngủi chỉ như cái chớp mắt. Bởi vậy để sống có ý nghĩa, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của sự sống, của tình yêu, của cuộc đời người, Xuân Diệu đã chủ trương sống “vội vàng”:

“Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng”

Xuân Diệu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh: “Ôm, riết, thâu” thể hiện khát khao chiếm lĩnh những vẻ đẹp của thời tươi. Không thể làm cho bước đi của thời gian ngừng lại thì hãy sống tận độ, sống nồng nhiệt, yêu hết mình để không có hối tiếc khi thời gian trôi đi. Quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu như lời khuyên chân thành, tha thiết đến độc giả: Hãy sống ý nghĩa, sống hết mình cho cuộc đời này và đừng để thời gian trôi qua kẽ tay một cách vô nghĩa.

Bài thơ được kết thúc bởi câu thơ tràn đầy cảm xúc “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Câu thơ là kết tinh của tình yêu và sáng tạo của người thi nhân, “xuân hồng” không chỉ gợi liên tưởng đến mùa xuân mà còn gợi ra màu sắc tươi non, hấp dẫn, “cắn” lại là hành động chiếm lĩnh đầy mạnh mẽ. Nếu xuân hồng là phần tươi ngon, hấp dẫn nhất của cuộc đời thì nhà thơ muốn chiếm lĩnh để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của trần gian.

Qua “Vội vàng”, nhà thơ Xuân Diệu không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc đời mà còn kín đáo thể hiện những quan niệm sống, triết lí sống đầy ý nghĩa. Với vẻ đẹp ấy, triết lí ấy, “Vội vàng” là bài thơ trữ tình có thể làm xao xuyến trái tim độc giả bao thế hệ.

Phân tích bài thơ Vội vàng – Mẫu 4

Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng “say đắm” tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, cuống quýt”. Cái động thái này đã biểu hiện ở trong Đây mùa thu tới, như một phần đề, như một phiến âm bản thì bài thơ Vội vàng là dương bản, hết sức đặc trưng, là một bản tự bạch của Xuân Diệu. Bài thơ này cho thấy thi sĩ rất hiểu mình, cho thấy một quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ rất tiến bộ và tích cực.

Trước hết, bài thơ Vội vàng qua đôi mắt của Xuân Diệu cho ta thấy cõi đời trên trần thế có vẻ đẹp thiền đường. Hoài Thanh thật tinh tế khi nhận xét “Với Thế Lữ, thi nhân còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đổi cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”

Từ xưa, trí tưởng tượng của con người đã tạo nên một xứ bồng lai tiên cảnh. Đó là những giấc mơ để xoa dịu, để an ủi cuộc sống hiện tại của mình. Ngay cùng thời ,Xuân Diệu, Thế Lữ đã có những giấc mộng tiên như thế. Cảnh sắc ở đây thật huyền ảo.

Trời cao xanh ngắt ở kia
Hai con hạc trắng bay về bồng lai

Xuân Diệu thì không thể! Ông nhìn thấy và muốn cho mọi người: Thậm chí lôi kéo chúng ta vào một thiên đường trần thế. Thiên đường ấy của những người bình thường. Nó mang vẻ đẹp ngồn ngộn sức sống chỉ cần một bí quyết nhỏ thôi thì chúng ta sẽ lĩnh hội được thiên đường ấy, bí quyết ấy chính là “sống toàn tâm, toàn ý, toàn hồn“ và hãy đánh thức dậy tất cả những giác quan của mình. Đọc đoạn thơ sau:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này dãy lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình sì
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Ta cứ ngỡ ngàng như đang lạc vào vườn địa đàng. Trong khu vườn ấy, người thi sĩ đang dâng hiến một cách hào phóng tất cả những báu vật đem đến cho ta chuếnh choáng say mê cuộc sống. Điệp từ “Này đây” không chỉ là mời, không chỉ là dâng hiến, không chỉ liệt kê tài sản vô giá của thiên nhiên mà có lẽ nó đã ngấm vào người đọc một nhịp điệu thúc giục vội vàng.

Nó khuyên người ta đừng quá mất thời gian khi ngắm nhìn vườn địa đàng trần thế. Mỗi bước đi khi ta lạc vào trong đó đều như ùn ùn nở ra những điều mới lạ khiến ta càng say mê đắm đuối. Những hình ảnh ở trong vườn địa đàng này nó có sắc “hoa của đồng nội xanh rì” có vị trí dành cho “ong bướm tuần tháng mật”.

Nó có hình có khối như những sợi tơ duyên “lá của cành tơ phơ phất”. Dường như ở đây xuất hiện khúc nhạc vui khiến người ta đi vào cõi si mê của tình ái “Của yến anh này đây khúc tình si”. Thiên nhiên rất rộng rãi nhưng không rối. Nó là cái nền để cho con người thực sự tạo nên thiên đường.

Và này đây…
Tháng giêng…

Hóa ra vẻ đẹp của thiên đường trần thế là do chính con người tạo ra. Ánh sáng từ rèm mi đã làm cho hoa lá, chim chóc tưng bừng, làm cho bình minh ló rạng để- cho “mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa”, để cho người ta cảm nhận tháng đầu tiên của mùa xuân “ngon như một cặp môi gần ”, Một cảm giác khó nói thành lời. Nó nồng nàn say đắm nhưng rất thanh tân.

Thực ra cái thời gian tươi trẻ, cái vườn xuân địa đàng tuyệt vời của Xuân Diệu miêu tả không phải bây giờ mới có. Nó có trước khi con người xuất hiện. Nó tồn tại khách quan ngoài ý chủ quan của con người. Tuy nhiên, người nghệ sĩ hơn người thường ở chỗ đã cho ta nhìn được cái đẹp đến hai lần trong thời gian quanh ta. Chính đôi mắt xanh non của Xuân Diệu đã cung cấp một thời gian vốn già nua thành trẻ lại.

Một đôi mắt với cái nhìn trẻ trung yêu đời. Nó ngơ ngác và vui sướng như lần đầu tiên trông thấy trời xanh hoa lá cỏ cây. Với Xuân Diệu cái gì cũng mới lạ đẹp đẽ. Trần thế là cái thiên đường hương, là mảnh vườn tình ái, là mảnh tiệc với những thực đơn quyến rũ tinh thần Nó như một người tình đầy khêu gợi.

Xuân Diệu yêu thiên nhiên thực ra là tình tự với thiên nhiên. Ông hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Và Tố Hữu trong Từ ấy cũng bắt gặp vườn thiên nhiên nhờ ông phát hiện lí tưởng cộng sản. Đời tôi là một vườn hoa lá. Đẹp nhất là con người trên mặt đất trong tuổi trẻ và trong tình yêu.

Khi xác định chuẩn mực thẩm mĩ, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp nhất là con trụ trên mặt đất. Và con người chỉ có thể đẹp nhất, có ý nghĩa nhất khi sống với tình yêu. Các nhà thơ xưa thường lấy khuôn mẫu, vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp. Vì thế con người chỉ có thể đẹp như thiên nhiên. Khi Nguyễn Du tả đôi mắt nàng Kiều “làn thu thủy nét xuân sơn” thì “thu thủy”và “xuân sơn” là chuẩn mực.

Nhưng mắt giai nhân chỉ đẹp đến mức như vậy. Với Xuân Diệu, định lí đã đảo ngược: con người là chuẩn mực. Thế gian này đẹp nhất diệu kì nhất là con người. Đẹp gấp bội phần lại là sức sống tuổi thanh xuân, ở đây, con người rạng rỡ trong tình yêu và vì thế nó là tác phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa.

Từ một quan niệm như thế trong bài thơ Vội vàng Xuân Diệu đã sáng tạo được hình ảnh thật độc đáo:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Khi hàng mi chớp mắt thì ánh sáng của một buổi bình minh gọi thần Vui đến. Cả bình minh rực rỡ của vũ trụ được tỏa ra từ đôi mắt người thiếu nữ. Câu thơ “Tháng giêng…” là một so sánh táo bạo. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian và chứa cả không gian mùa xuân. Nó chỉ có thế đầy khêu gợi khi so sánh với chuẩn mực con người. Đây là cặp môi gần.

Dĩ nhiên, con người cũng vô cùng đẹp đẽ trong tuổi tình yêu. Một năm đẹp nhất là mùa xuân. Mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng, mọi vật bừng lên sức sống tươi mới trẻ trung. Đặc biệt, thiên nhiên ấy lại được so sánh với chuẩn mực là vẻ đẹp của tình yêu. Phải sống có chất lượng với tuổi thanh xuân của mình.

Trần thế là thiên đường. Trong thiên đường đẹp nhất là con người. Vì thế Xuân Diệu khuyên nhủ chúng ta phải sống vội vàng, sống đã đầy, sống có chất lượng nhất với tuổi thanh xuân của mình. Đây là giải pháp để hưởng thụ chính đáng hạnh phúc vốn ngắn ngủi của con người trên mặt đất. Xuân Diệu cho rằng cuộc sống tươi đẹp, nhưng tạo hóa sinh ra con người không để cho họ mãi mãi được hưởng niềm vui với trần thế.

Câu thơ bị hẫng hụt chuyển sang một âm điệu bi thương bởi dấu chấm giữa dòng. “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Thực ra niệm cuộc đời ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn thời gian trôi đi không bao giờ trở lại. Dĩ nhiên những giá trị của hạnh phúc, của cái đẹp sẽ tàn phai, sẽ chết là tất yếu. Đây là cảm thức có tính nhân loại. Lí Bạch nói: “Người xưa cầm đuốc chơi đùm”. Tô Thức tâm sự:

Cảnh khuya những sợ rồi hoa ngủ
Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng
Nguyễn Trãi băn khoăn:
Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân

Nguyễn Gia Thiều thì thở dài tuyệt vọng:

Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một đám cỏ khâu xanh rì

Ngay cả bài thơ Vãn cảnh của Hồ Chí Minh cũng chuyên vận trong quỹ đạo ấy. Tuy nhiên khi cá nhân chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn hỏi trong vũ trụ, thuyết luân hồi thì cái chết chỉ là một sự bắt đầu của một quá trình. Văn học trung đại có thở than nhưng không phải ngậm ngùi.

Nó vẫn có cái thích tháng ung dung tự tại. Xuân Diệu ý thức mãnh liệt về cá nhân nên bao giờ ông cũng vội vàng cuống quýt. Ông nhìn thấy thời gian trôi chảy không ngừng cũng không là vĩnh viễn cho nên lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam mới có quan niệm này.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Xuân Diệu xác định xuân của vũ trụ có thể tuần hoàn nhưng xuân của đời người chỉ có một lần mà thôi. Ông đã nồng nhiệt phủ định.

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chỉ hai lần thắm lại.

Nghĩ về tình hữu hạn của kiếp người, Xuân Diệu đã để lại một nỗi ngậm ngùi. Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi. Như vậy, trong nhận thức lí tính, Xuân Diệu cho ta thấy không có cách gì để tuần hoàn lại tuổi trẻ của đất trời. Vì thế ông khao khát tước đoạt quyền uy của tạo hóa. Tức là níu giữ thời gian, vô hiệu hóa sự vận động của thời gian.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Nhưng đó lại là ảo giác cho nên chỉ còn một cách là sống vội vàng, tính sổ với cuộc đời mình từng giây từng phút. Nhưng từ câu

Mau đi thôi!
(…)
Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Cảm xúc đã trào lên mãnh liệt, vồ vập, giọng điệu trở nên sôi nổi, bồng bột. Ta nghe tiếng dập gấp gáp của trái tim Xuân Diệu, những đợt sóng tình cảm như vồ chụp lấy người đọc, rủ rê người đọc cùng hành động. Động từ “ta muốn” được lặp lại một cách rống riết và đích đáng. Các đợt yêu thương mỗi lúc thêm mạnh mẽ, nồng nàn “ôm, riết, say, thâu, cấn”.

Có thể diễn đạt bài thơ ngắn gọn như sau “Tôi muốn tắt nắng, buộc gió bởi vì thiên đường trần thế rất hạnh phúc. Thế nhưng tôi thấy đời người, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Vì thế tôi cùng các bạn (ta) hãy sống chất lượng nhất cho cuộc sống. “yêu thì phải vội vàng” Tuy nhiên cái lí luận khô khan ấy rất dễ giết chết người đọc bởi nhịp sống rất dồi dào mãnh liệt. Người đọc mê cái thiên đường trần thế mà Xuân Diệu miêu tả, trôi vào dòng chảy của triết lí sống gấp để tận hưởng những hạnh phúc mà mình đang hưởng. Đó là triết lí sống lành mạnh.

Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi người ta được hạnh phúc. Tuổi trẻ là trái xuân hạnh phúc trăng tròn. Hãy tận hưởng những gì ngọt ngào nhất của nó… Triết lý nhân bản sống vội vàng là con đường cũng như sự trả giá cho hạnh phúc. Triết lí ấy được nói bằng trái tim tuổi trẻ và ta hiểu vì sao ngay khi xuất hiện, Xuân Diệu đã được tuổi trẻ nồng nhiệt đón nhận.

Phân tích Vội vàng Xuân Diệu – Mẫu 5

Xuân Diệu là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với cuộc sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Ngay trong khổ thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng táo bạo đến hoang đường. “Nắng và gió” đều là những hiện tượng thuộc về tự nhiên và “vận hành” theo quy luật của tự nhiên. Vậy nên mong muốn được “tắt nắng, buộc gió” quả là vô lí. Tuy nhiên ẩn sâu trong mong muốn vô lí ấy lại là một tình yêu cuộc sống đến tha thiết, khắc khoải. Xuân Diệu muốn tắt nắng để màu đừng nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay. Vậy là người thi sĩ muốn lưu lại những vẻ đẹp tự nhiên, thanh khiết của cuộc đời để mãi lưu giữ khoảnh khắc của thời tươi.

Bằng đôi mắt “xanh non biếc rờn” cùng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện được những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất nơi trần gian:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Xuân Diệu đã mở ra bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” gợi ra được cái háo hức, rạo rực của người thi sĩ khi giới thiệu về vẻ đẹp nơi trần gian – nơi người thi sĩ đắm say với một tình yêu mãnh liệt.

Hình ảnh “ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng” là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật. Nhưng khi đi qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường.

Thiên nhiên, sự sống trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng tươi tắn, mời gọi như vậy. Tuy nhiên nét đặc sắc nhất trong cảm nhận của người thi sĩ phải để đến cách so sánh “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Vậy là trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân cũng tươi ngon, hấp dẫn khó cưỡng như một cặp môi gần.

Lấy con người là chuẩn mực đánh giá cho những vẻ đẹp của tự nhiên không chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ mà còn thể hiện quan niệm mới trong sáng tác. Nếu người xưa lấy thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người thì nay Xuân Diệu lại đặt con người ở vị trí trung tâm của vũ trụ và khẳng định con người mới là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp.

Cùng với trái tim luôn rạo rực, nóng bỏng với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu luôn thường trực tâm trạng lo âu, phấp phỏng trước những bước đi của thời gian. Khi người ta càng yêu, càng trân trọng thì càng lo sợ nó sẽ tan biến trong cái vô hình, có lẽ Xuân Diệu cũng vậy, càng yêu cuộc đời thì càng bất an, lo lắng:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Bằng những cảm nhận nhạy bén của mình, Xuân Diệu có thể nhìn thấy những dấu hiệu tàn phai của sự sống ngay ở thời tươi. Xuân đang tươi non, nở rộ đấy nhưng chính trong vẻ đẹp của thời tươi ấy lại là mầm mống của sự tàn phai, lụi tàn “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua”, và tuổi trẻ cũng vậy, một khi trôi qua sẽ không bao giờ quay trở lại “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”.

Xuân Diệu đã gắn tuổi trẻ với mùa xuân và đưa ra quan niệm của mình về thời gian. Tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu tuy đẹp nhưng không phải mãi mãi, vô hạn mà hữu hạn, ngắn ngủi chỉ như cái chớp mắt. Bởi vậy để sống có ý nghĩa, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của sự sống, của tình yêu, của cuộc đời người, Xuân Diệu đã chủ trương sống “vội vàng”:

Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Xuân Diệu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh: “ôm, riết, thâu” thể hiện khát khao chiếm lĩnh những vẻ đẹp của thời tươi. Không thể làm cho bước đi của thời gian ngừng lại thì hãy sống tận độ, sống nồng nhiệt, yêu hết mình để không có hối tiếc khi thời gian trôi đi. Quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu như lời khuyên chân thành, tha thiết đến độc giả. Hãy sống ý nghĩa, sống hết mình cho cuộc đời này và đừng để thời gian trôi qua kẽ tay một cách vô nghĩa.

Bài thơ được kết thúc bởi câu thơ tràn đầy cảm xúc “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Câu thơ là kết tinh của tình yêu và sáng tạo của người thi nhân. Hình ảnh “xuân hồng” không chỉ gợi liên tưởng đến mùa xuân mà còn gợi ra màu sắc tươi non, hấp dẫn, “cắn” lại là hành động chiếm lĩnh đầy mạnh mẽ. Nếu xuân hồng là phần tươi ngon, hấp dẫn nhất của cuộc đời thì nhà thơ muốn chiếm lĩnh để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của trần gian.

Qua bài thơ, Xuân Diệu không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc đời mà còn kín đáo thể hiện những quan niệm sống, triết lí sống đầy ý nghĩa. Với vẻ đẹp và triết lí ấy, “Vội vàng” là bài thơ trữ tình có thể làm xao xuyến trái tim độc giả bao thế hệ.

……………

Tải File tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích Vội vàng

[ad_2]

Đăng bởi: THPT An Giang

Chuyên mục: Học Tập

Viết một bình luận