Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Photo of author

By THPT An Giang

[ad_1]

Nội dung đang xem: Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân tổng hợp 19 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy. Với 19 mẫu phân tích bài Vợ nhặt mà Download.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn lớp 12 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.

Phân tích truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân

Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Mời các bạn hãy cùng Download.vn theo dõi 19 bài phân tích Vợ nhặt dưới đây để hiểu rõ hơn về tác phẩm nhé. Ngoài ra các bạn xem thêm một số bài văn mẫu như: tóm tắt Vợ nhặt, phân tích bà cụ tứ, phân tích nhân vật Tràng.

Dàn ý phân tích truyện Vợ Nhặt

I. Mở bài:

  • Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
  • Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

II. Thân bài:

1. Ý nghĩa nhan đề

“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

2. Tình huống truyện

  • Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
  • Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
  • Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.

3. Nhân vật Tràng

– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

– Lần gặp 2:

  • Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
  • Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
  • Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về

  • Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
  • Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

4. Nhân vật người vợ nhặt

a. Lai lịch

  • Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
  • Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

b. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

  • Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
  • Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

c. Phẩm chất

– Có khát vọng sống mãnh liệt:

  • Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
  • Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ và nết na:

  • Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
  • Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
  • Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
  • Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
  • Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.

– Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

5. Nhân vật bà cụ Tứ

– Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

– Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.

– Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

III. Kết bài:

  • Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Xem thêm: Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ nhặt

Sơ đồ tư duy phân tích Vợ nhặt

Sơ đồ phân tích Vợ nhặt

van mau lop 12 phan tich tac pham vo nhat cua kim lan 1

Xem thêm: Sơ đồ tư duy bài Vợ nhặt

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt

Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân Đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.

Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhận vật thị vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.

Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng. Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.

Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.

Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyễn chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.

Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam. Không những thế thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện của thị như tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một ngày mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong tương lai.

Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Phân tích Vợ nhặt hay nhất

Nhà văn Pháp Napoli từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”. Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.

Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta. Cái đói đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị khiến con người bị dồn tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh khủng khiếp ấy, ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người.

Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ nhặt” tức là người vợ tự theo về nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy cũng chính là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.

Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ, xấu xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng nồi chè nấu bằng cám. Ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo và kết thúc truyện bằng hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra một tình huống hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như Tràng mà lại nhặt được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân anh ta. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí bởi chính nạn đói làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con người tới ranh giới của sự sống và cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.

Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cơ cực, nghèo đói đến xác xơ của con người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là ba mẹ con Tràng. Cái đói ập đến ngôi làng như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao nhiêu người, nó biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh bình thành không khí ẩm thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười hồn nhiên của những đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy giờ không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật chính của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, xấu xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Sống với kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo khổ, chàng đã “nhặt” được một người vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê quán, nhà cửa. Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút tả thực, nhà văn đã khắc họa thành công bức tranh của “ngôi làng đói” trong năm 1945.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận về nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp: Đó là tình yêu thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ còn xót lại khi con người ta đã mất tất cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vật Tràng hiện lên với lòng tốt của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ xa lạ. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với tình yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai có vợ: bà cụ hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ chào là “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhòe mà vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện một loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa bao giờ nghĩ một người nghèo khó như con mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc quá lớn lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người mẹ chất chứa bao cơ sự, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn trên gò má. Không những thế, bà cụ cảm thấy lo khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đứng vân ve tà áo thì lòng bà cụ xót thương vô cùng cho người con dâu. Những suy nghĩ đầy tình thương đầy nhân ái và cảm giác yên tâm đã thay thế nỗi lo trong lòng bà cụ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, hành động cụ thể: gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ bằng một từ “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận con dâu giúp con dâu bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã coi người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.

Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con người qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của Tràng thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định nhanh khi đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng ở bên trong lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về xóm ngụ cư, dù nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình tứ đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau có vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh phúc. Khi đưa người vợ nhặt về nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh toàng của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng muốn mọi sự tốt đẹp hơn khi có vợ, muốn người phụ nữ đó ở lại với mình. Tràng lo lắng sốt ruột khi mẹ chưa về để được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ thị đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ động giới thiệu với mẹ bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng đã xóa tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc nghiêm túc: muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hôm sau thức dậy là thời điểm thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới đến với cửa sổ tâm hồn mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy sự khác lạ xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong không khí giản dị, yên bình của gia đình: vợ quét sân, mẹ dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị ấy khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vô cùng với mình. Không những thế Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn cũng muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.

Bên cạnh khao khát hạnh phúc của Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây nên bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận để sống trọn vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh theo Tràng về làm vợ và khi bước vào gia đình Tràng, hiểu được gia cảnh của anh, thị ngán ngẩm thở dài nhưng muốn có một gia đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, thị bắt tay gây dựng gia đình, cuộc sống với mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ, mọi thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng thay đổi hẳn: trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.

Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn chết. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. “Người vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự sống mà đã liều lĩnh theo Tràng về làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên thành niềm khát khao hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát thành người biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh hơn cả cái chết và thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn nén lòng mình lại động viên an ủi các con và cũng là động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn toàn: khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào nhanh nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay đổi của bà cụ đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống.

Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng con người tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy nghĩ nhạy bén của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”.Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mạng.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lòng bạn đọc không chỉ bởi niềm cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng bằng trung du bắc bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tôi” gợi lên không khí miền trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó là nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.

Phân tích bài Vợ nhặt

Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.

Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thật vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn “người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ.

Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra, một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.

Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư, sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng, cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.

Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc. Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4 chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn, thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng.

Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ.

Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt nhọc đang chờ phía trước.

Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột, anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng. Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.

Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm, mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà (Dàn ý + 12 mẫu)

Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn. Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh, mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.

Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ, tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về.

Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu, sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ,… đã mang đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.

Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con mình khổ sở, đơn độc mưu sinh.

Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự, bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này.

Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị.

Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám, tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những con đường mới mẻ, đầy hy vọng.

Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng, thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai, và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn

Phân tích Vợ nhặt – Mẫu 1

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ. Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.

Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh Tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt đầu không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

Phân tích Vợ nhặt – Mẫu 2

Kim Lân được biết đến cũng chính là nhà văn của làng quê Việt Nam với người nông dân Việt Nam. Có một cách viết chân chất, mộc mạc và ông lại chắt lọc và sáng tạo lên những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Không sai chút nào khi người ta nói văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị và vô cùng đời thường. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn vô cùng đặc sắc của Kim Lân khi ông đã tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân thế nhưng trong đau khổ họ vẫn luôn khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc, yêu thương.

Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm đã được ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945. Có thể nói đời sống nhân dân lúc này đây bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm. Và một khung cảnh thê lương đó dường như cũng đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm biết bao nhiêu.

Độc đáo ngay từ khi đọc nhan đề của tác phẩm, Kim Lân dường như cũng đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, cuộc sống bần hàn nhất. “Vợ nhặt” chính là chi tiết và đồng thời cũng là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật được hé mở ra.

Mở đầu truyện ngắn người đọc cũng nhận thấy được nhân vật anh Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra,…” Nhà văn cũng chỉ miêu tả một vài những chi tiết nhỏ nhưng cũng đã khiến cho người đọc cũng lại cảm nhận thấy được diện mạo của người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Có thể nhận thấy được chính vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ được chính lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói khổ biết bao nhiêu, cái nghèo như làm họ xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.

Tác giả Kim Lân dường như cũng đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo và cũng vô cùng mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Người đọc như cũng lại nhận thấy được chính tình huống Tràng “nhặt” được vợ như nới lên chính sự thê thảm và vô cùng éo le của những con người chính trong xã hội lúc bấy giờ. Người đọc dường như cũng lại cảm nhận thấy được chính hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả thật độc đáo của nhà văn đầy ám ảnh đó chính là chi tiết miêu tả “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống và cái nón rách tàng tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Người đọc cũng nhận thấy được đây là một người đàn bà nghèo khổ, và ở người đàn bà này không còn thứ gì giá trị gì thị lại khi đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, và có một cuộc sống như thật cùng cực đúng là một đôi trời sinh vậy.

Thực sự cũng chính giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, nó dường như cũng lại thật ảm đạm của xóm nghèo la liệt những xác chết đói nữa. Thế rồi chính không khí lúc này đây cũng thê thảm, một buổi chiều nơi xóm ngụ cư này bị cái đói, cái nghèo đè nén thật tang thương biết bao nhiêu. Cái đói, cái nghèo đó như cũng đè nén sự sống đến chìm nghỉm khiến cho mọi người khi đọc câu văn cũng cảm nhận thấy được có những phận nghèo thật long đong và bước vào đường cùng không lối thoát. Khung cảnh mà Tràng dắt vợ về đã khiến cho điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về chính người đàn bà như đang đi bên cạnh Tràng. Người đàn bà không còn vẻ chua ngoa như trước mà đã biết thẹn thùng đi sau Tràng khi về làm vợ. Trong cảnh đói nghèo đó đến miếng ăn và bản thân mỗi người còn chẳng lo đủ thế mà lại lấy vợ thì thực đây là một điều lạ. Điều lạ này lại lạ với tất cả mọi người, với lũ trẻ con, với tất cả người dân xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ và cả với Tràng nữa.

Truyện ngắn còn đặc sắc và mang được tính nhân văn cao đó là khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ – mẹ Tràng dường như cũng lại được nhà văn Kim Lân khắc họa diễn biến và có thể nhận ra được cũng chính sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc biết bao nhiêu. Chắc chắn rằng chính người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu của bà cụ Tứ. Làm sao có thể quên được chi tiết đó chính là bà Tứ nhận ra được và hiểu được mọi sự tình khi Tràng dẫn người vợ nhặt về. Những sự băn khoăn, những sự lo lắng của bà cụ Tứ dường như cũng đã hiển hiện rõ hơn thế rồi bà cũng lại động viên các con tin tưởng vào tương lai. Thế rồi hình ảnh đặc sắc “nồi cháo cám” chính là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình ngay trong nạn đói. Tâm trạng của mỗi nhân vật như cũng đổi khác và ai ai cũng mong vun vén cho hạnh phúc gia đình của mình ngay trong nạn đói đó. Người đọc cũng lại nhận thấy được chính bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở ngay cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn mà nhà văn Kim Lân muốn thể hiện.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 12: Nghị luận Vào đại học có phải con đường tiến thân duy nhất

Có thể nhận thấy rằng chính bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo và cũng vô cùng độc đáo và cốt truyện “Vợ nhặt” mang được đầy bất ngờ. Kim Lân dường như cũng đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Thông qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt ngay trong cả lúc cái chết chiếm lĩnh.

Phân tích Vợ nhặt – Mẫu 3

Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của ông tập trung phản ánh bức tranh của nông thôn Việt Nam và hình tượng người nông dân. Dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn Việt Nam cũng như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người nông dân được thể hiện chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những tác phẩm thành công của Kim Lân với cốt truyện độc đáo cùng lối dẫn chuyện hóm hỉnh hấp dẫn người đọc.

Lấy cảm hứng từ nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hiện thực bức tranh ngày đói ám ảnh trong từng câu chữ, từng trang văn của ông. Bằng ngòi bút tả thực kết hợp Kim Lân đã tái hiện cảnh vật xác xơ heo hút của ngã tư xóm chợ về chiều, rồi “hai bên dãy phố, úp sụp, tối om”,”cái nhà vắng teo đứng rúm ró một mảnh vườn mọc lổn nhổn”…Từng ấy thôi ngòi bút của ông đã tô đậm lên bức tranh u tối, với cảnh sống đói nghèo của nông thôn Bắc Bộ những năm 1945. Tất cả hiện lên đều còm cõi, xác xơ, rách rưới. Ở đó không chỉ có cảnh vật mà con người cũng hiện lên lụi tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái chết cũng được ghi lại trong âm thanh thê thiết, tạo nên sự ghê sợ, rợn người. ở đó như đang dồn đuổi sự sống của con người đến đường cùng. Âm thanh của tiếng quạ trên mấy cây gạo, của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng trống thúc thuế mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ vậy thôi mà nhà văn như tô lại hiện thực tố cáo sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc thực dân với những chính sách vô cùng hà khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.

Trong cái không gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc không khỏi bàng hoàng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài nhiều vế, kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng bế, dắt díu nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những người sống đang lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống không phải cuộc sống của con người. Người chết thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn và nhức nhối của biết bao con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thôi thúc Kim Lân phản ánh lại bằng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.

Cũng từ bức tranh đói khổ ấy, câu chuyện mà Kim Lân muốn kể với người đọc là câu chuyện đầy đủ bi hài. Ở đó là câu chuyện của nhân vật Tràng “nhặt” được cô vợ trong những ngày đói khổ như thế. Kim Lân đã rất tài tình trong việc khắc họa từng tâm trạng của nhân vật chính xoay quanh cốt truyện độc đáo. Sự thay đổi tâm lý rất phù hợp từ lúc gặp Thị (vợ Tràng), trên đường đưa Thị về nhà, về đến nhà. Đặc biệt là tâm trạng sáng ngày hôm sau và tâm trạng trong bữa cơm đều được Kim Lân tái hiện lại chân thực. Bằng những ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, mộc mạc nhà văn đã cho người đọc thấy rõ nhất được hiện thực cuộc sống thê thảm qua câu chuyện “cưới vợ” của Tràng trong ngày đói. Cũng từ cái hiện thực thê thảm đấy mà qua đó, người đọc vẫn nhìn nhận được niềm tin của nhà văn. Ông tin tưởng vào tương lai dù có thế nào, dù họ có bị đẩy vào bước đường cùng thì vẫn le lói sự sống bằng tình yêu thương sự đùm bọc lẫn nhau giữa con người. Đồng thời cũng cho thấy được khát khao hạnh phúc gia đình mãnh liệt của người dân lao động.

Sau hình ảnh nhân vật Tràng thì nhân vật Thị cũng hiện lên với bản lý lịch trích ngang hoàn toàn trắng xóa. Không gia đình, không người thân, không nhà cửa, không tên tuổi. Thị hiện lên như một sinh vật khốn khổ bị quăng quật, hiện lên là một con số không tròn trĩnh trong cơn lốc xoáy của cuộc đời. Chỉ qua lời bông đùa đơn giản Thị nghiễm nhiên trở thành vợ của Tràng. Và như những người khác khi về nhà chồng, Thị cũng trải qua đầy đủ mọi cảm xúc, sự e thẹn, xấu hổ, đến niềm vui, sự bần thần lo lắng cùng Tràng và bà mẹ chồng về cái đói, cái nghèo bủa vây. Nhưng trong đó, vẫn là niềm vui, khát vọng sống của từng ấy con người. Từ bức tranh hiện thực ấy mà Kim Lân một lần nữa ca ngợi khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người như một giá trị tốt đẹp.

Xây dựng một kết thúc mở cùng với lối kể truyện độc đáo, lời văn giản dị, chân thành, mộc mạc nhưng rất có sức gợi hình, Kim Lân đã rất tài tình trong việc phản ánh chân thực nạn đói của xã hội Việt Nam những năm 1945. Số phận của người lao động bị rẻ rúng, thấp hèn, bị cái nghèo đói bủa vây cùng vô số những chính sách hà khắc của chế độ thực dân. Qua đó ông cũng thể hiện giá trị nhân đạo đó là ngợi ca khát vọng sống, trân trọng và gieo vào lòng người đọc một niềm tin thay đổi hoàn cảnh. Đồng thời tố cáo xã hội đen tối, tố cáo những chính sách khiến người dân càng lâm vào cảnh lầm than.

………………..

Tải file về để xem thêm bài phân tích Vợ nhặt ngắn gọn

Phân tích bài Vợ nhặt đầy đủ nhất

Phân tích Vợ nhặt – Mẫu 1

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thôn quê.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.

Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.

Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khác lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.

Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.

Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cơ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.

Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.

Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn…

Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.

Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.

Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ… Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?

Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?

Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức. Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.

Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.

Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm chợ… xác xơ, heo bút. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết…

Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!

Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cái lạ lùng đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu: Bố ranh! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.

Xem thêm: Mở bài về tác phẩm Vợ Nhặt

……………

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích Vợ nhặt của Kim Lân

[ad_2]

Đăng bởi: THPT An Giang

Chuyên mục: Học Tập

Viết một bình luận