Phân tích Trao Duyên (Đoạn trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Photo of author

By THPT An Giang

Chào mừng bạn đến với blog chia sẻ Trường THPT An Giang trong bài viết về ” Phân tích trích đoạn trao duyên “. Chúng tôi sẽ cung cấp và chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức dành cho bạn.

1. Hướng dẫn lập dàn ý đoạn trích Trao duyên hay nhất:

1.1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích: Tác giả Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm “Truyện Kiều”

1.2. Thân bài:

– Tâm trạng Thuý Kiều khi trợ giúp, thuyết phục Thuý Vân: Kiều dù là chị nhưng phải cúi lạy, lễ phép với em của mình, có phần đối lập với giáo lý phong kiến nhưng cũng phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu, trước khi mất đã tôn kính, trạng trọng xem Vân như người ân nhân của mình

– Tâm trạng Thuý Kiều khi trao lại kỉ vật cho Thuý Vân: Từng kỉ vật như cái khăn, tấm tranh, cây đàn, miếng trầu bỗng chốc trở thành của chung ba người, dù trao mất kỉ vật nhưng lòng Kiều luôn nhớ mãi ân tình và không quên được bao kỉ niệm với người yêu

– Tâm trạng Thuý Kiều khi nghĩ đến chuyện tình với Kim Trọng: Kiều quay trở lại thực tại, không có kỷ niệm yêu đương ngọt ngào nào, mà là hiện thức dang dở, chia ly và đổ vỡ, giờ đây tình duyên của nàng đã hết, cuộc đời cũng sẽ được trao cho người ta, số phận nàng “bạc như vôi”

1.3. Kết bài:

Đánh giá: Xem đoạn trích “Trao duyên”, ta không những hiểu được câu chuyện tình và cuộc đời của Thuý Kiều mà còn thấy được ở đó toát lên nhân cách cao cả của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, có đức hi sinh và tấm lòng vị tha

Xem thêm: Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

2. Phân tích Trao Duyên (Đoạn trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) hay nhất:

Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thực sự là một kiệt tác văn chương của thế giới, tác phẩm được đưa vào dạy trong chương trình Phổ thông dưới dạng những trích đoạn điển hình. Một trong các đoạn trích điển hình về hoàn cảnh trớ trêu và dở dang tình duyên của Thuý Kiều đó là “Trao duyên”. Tác giả đã vô cùng thành công trong việc khắc hoạ rất chân thật và rõ nét tâm trạng nhân vật Thuý Kiều qua mỗi phân cảnh, đọng lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm.

Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích này gây ấn tượng với người đọc vì cái lạ, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp xếp của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi trả lại cho nhau dễ như vậy. Chính cái lạ của tiêu đề đã gợi nên nhiều dự cảm cho số phận cũng như sự trớ trêu trong đoạn trích này. Sự bất ngờ còn nằm ở cách trao duyên của Thuý Kiều khi nàng quyết định đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thuý Vân để giúp em tiếp nối và báo đáp công ơn cho Kim Trọng.

“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Các từ ngữ như “xin, đứng, ngồi dậy, lạy, chào” cũng được tác giả sử dụng mang tính ẩn dụ và biểu cảm rất cao. Thuý Kiều không phải là nhờ vả mà là trông cậy ở Thuý Vân, chỉ có Vân mới giúp đỡ được Kiều trong hoàn cảnh này nên nàng chấp nhận cúi lạy và thưa với người em của mình, để mong em có thể chấp nhận lời cầu hôn ngắn ngủi nhưng chân thành này. Thuý Kiều dù hoàn cảnh khó khăn nhưng cũng thể hiện được sự dịu dàng, tinh tế và khéo léo khi xem em như ân nhân của mình với cả lòng tôn trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim và giải thích lí do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thuý Vân, nhưng vì sóng gió xảy đến đột ngột với gia đình nên nàng đã hy sinh cái tình mà hoàn thành chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em ruột thịt, hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng để chấp nhận mang vào mình mối tơ dư duyên tình của Kiều. Lời nói ấy đã thấu được hết nghĩa và tình, Vân có muốn chối từ cũng không thể dù biết đó cũng là sự lựa chọn rất khó dành cho Vân. Có được sự tha thứ của Vân, Kiều dẫu chết cũng thấy thanh thản và nhẹ nhõm, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện niềm an ủi đối với những tổn thương mà em phải gánh chịu vì mình. Sau khi đã nói lời trao duyên thì đến lúc trao tất cả các kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc khăn, bức tranh, cây đàn, mảnh giấy

“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung”

Đem những kỉ vật tình yêu ấy trao tặng, Kiều lại trao cho chính điều quý giá nhất của đời mình, giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã trở thành của chung. Nỗi đau xót xa phải trao đi cho biết nàng và Kim Trọng đã yêu thương nhau tha thiết, chân thành và thuỷ chung như thế nào. Mất đi tình yêu và trao những kỉ vật, cuộc sống thuý kiều đã không còn gì để nuối tiếc nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dẫu có chết vẫn giữ mãi lời hứa thuỷ chung:

Xem thêm:  Kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Tiểu học (8 mẫu)

“Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Kiều đã tuyệt vọng hết mức, chẳng còn lối thoát nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ trôi về đâu, kết cục ra sao nàng không biết được, chỉ mong có chết đi mọi người trên thế gian sẽ thấu hiểu cho tấm lòng và cảm thông với mình. Cũng những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim đã trở thành những vết dao khắc sâu vào nỗi đau của nàng:

“Giờ trâm gãy bình tan

Kể sao xiết vô vàn yêu đương”

Mọi tình duyên đã tan vỡ, dang dở, nàng Kiều rất đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ thấu hiểu được hoàn cảnh và nỗi buồn của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận long đong, lận đận. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy thái độ chấp nhận đầy cam chịu này, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bi kịch của mình, nàng không thể nào chống cự nổi nên phải tự xót thương cho bản thân mình.

“Ôi Kim lang! Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây “

Tình nghĩa sâu đậm coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong cơn vô vọng, tiếng kêu chất chứa nỗi cay đắng và xót xa gia đình chàng Kim nơi xa xôi cũng không ai biết chuyện này nên nàng ở quê nhà đã phải bất chấp hoàn cảnh để phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất luôn cả tương lai tươi sáng.

Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong các trích đoạn hay và tạo xúc động mạnh mẽ nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng xen kẽ với những ngôn từ mang tính biểu cảm cao đã khắc hoạ tâm trạng Thuý Kiều trong cảnh trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được sự đau đớn tột cùng và tiếc nuối về mối tình trời tặng đồng thời cũng thương cảm với số phận bất hạnh ấy.

Xem thêm: Mở bài Trao duyên (cơ bản, nâng cao, học sinh giỏi) hay nhất

3. Phân tích Trao Duyên (Đoạn trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) ý nghĩa nhất:

Nguyễn Du – một trong các tác giả tiêu biểu của nền văn học dân tộc nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và lưu dấu ấn tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật việt nam và thế giới. “Trao duyên” là đoạn văn quan trọng trong Truyện Kiều nói đến tình yêu sâu đậm cũng như bi kịch số phận con người trước biến cố cuộc đời.

Đoạn này nói về hoàn cảnh của gia đình đưa đến việc phải “trao duyên”. Bọn chúng gây nên những vụ oan lầm cho thuý kiều, buộc nàng phải bán mình lấy tiền chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán mất sự chọn lựa cho đời mình và nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thương nhưng vì tình sâu nghĩa nặng Nên phải làm như thế để phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên với Thuý Vân là em gái mình và ước sao em có thể giúp mình bù đắp lại chàng Kim. Với các hành động cùng lời lẽ lý tình sâu sắc Thuý Vân cố gắng thuyết phục em mình rằng

“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Từ “cậy” diễn tả lòng tin và mong ước tha thiết mà không đơn thuần là nhờ vả, cộng với từ “chịu” cũng như đưa người khác vào hoàn cảnh phải chấp nhận trước thì mới nói. Thuý Kiều đơn giản là đưa Thuý Vân vào hoàn cảnh đó, nên nàng mới có hành động gọi em ngồi dậy để mình cúi lạy, bẩm gởi, đó là hành động bày tỏ lòng tôn kính và cảm kích với ân nhân. Kiều biết chuyện mình trao duyên cho em là thiệt thòi rất khó nói với em nên cần phải hành động như thế nhằm bù lại. Kiều hiểu rằng mối tình của nàng và Kim Trọng chính là “mối tơ thừa” với Vân nhưng do hoàn cảnh nên nàng đành phải trao duyên, giữ duyên tình để mặc cho em rơi vào gánh nặng ân tình đó.

“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Nàng Kiều giãi bày lí do phải trao duyên với em đó cũng là vì “sóng gió bất kì” đã giáng xuống gia đình khiến nàng phải hy sinh cái tình mà đánh đổi bằng chữ nghĩa. Lời nói này đủ lý lẽ để lấy tình cảm chị em ruột thịt ra mà thuyết phục Thuý Vân, nếu có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dẫu có phải bán mình chết oan cũng đã thoả mãn, việc làm của Vân sẽ là ân sâu nghĩa nặng nhất.

“Chiếc vành với bức tờ mây… Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Sau bao lời thuyết phục và lý lẽ ấy, khó có thể cho Vân đường lui, mong em sẽ hiểu lòng mình mà tha thứ nàng mang từng kỉ vật tình yêu ngày xưa trao lại Vân. Dù trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau đớn vì mất mát hết những gì quý nhất, giờ kỉ vật đã là của chung của ba người, chẳng phải tình yêu và duyên ước nàng dành tặng cho mình. Nàng dặn dò Thuý Vân mai này có thành vợ nên chồng với chàng Kim phải nghĩ cho người mệnh bạc như nàng. Thuý Kiều nhắc đến cái chết bằng các câu ca dao, tục ngữ hay từ ngữ như: “đầu, vỡ cây trâm, gương”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là sự chết, để rồi dẫu có chết nàng cũng không quên lời hứa với Kim Trọng, chỉ cầu mong Kim Trọng sau này khi quay trở lại sẽ hiểu và cảm thông trước hoàn cảnh trớ trêu của nàng.

Xem thêm:  Hịch Tướng Sĩ - Trần Quốc Tuấn

“Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Lời kêu của Thuý Kiều dày đặc những từ: “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ngụ ý sự đổ vỡ và đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu nặng, nồng cháy và thuỷ chung là vậy, nhưng rồi nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đưa số phận nàng đến đường này, không còn cách nào khác nữa. Dù có đau đớn than hận nàng cũng đành chịu, tiếng kêu tha thiết dành tặng Kim Trọng như một lời sám hối từ đáy lòng:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! “

“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng kêu tha thiết thương yêu nhưng cũng là lời than thân trách phận rằng, nàng thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn mãi tin tưởng, đợi chờ người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình cũng chỉ là nhận lỗi rồi tạm biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu thuý kiều dành tặng Kim Trọng vô cùng sâu sắc và tha thiết, vậy cho nên, nàng đã hy sinh cả cuộc đời để giấu kín nỗi buồn của mình hướng đến đau của cha mẹ và hai em.

Thông qua trao duyên, chúng ta có thể thấy rõ bi kịch tình yêu cùng số phận đau khổ của Thuý Kiều rất thương tâm. Đây cũng là một trong các tác phẩm điển hình về khả năng diễn tả tâm lý con người của đại thi hào Nguyễn Du.

Xem thêm: Phân tích 18 câu đầu Trao duyên của Nguyễn Du hay chọn lọc

4. Phân tích Trao Duyên (Đoạn trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) ấn tượng nhất:

Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm mang lại nhiều ý nghĩa lớn lao ở cả tư tưởng và thẩm mỹ. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao thăng trầm, biến cố và phải đi qua những khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất vẫn là khoảnh khắc trao duyên cho em. Tất cả suy nghĩ tâm tư của nàng được thể hiện chân thật và trọn vẹn trong đoạn trích Trao duyên.

Trao duyên được trích trong phần tình yêu và cách trở vì sau khi gia đình gặp trận hoả hoạn Thuý Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm đồng để cho cha cùng em bị bệnh. Đêm cuối cùng trước khi phải sống bên Mã Giám Sinh, Thuý Kiều đã trò chuyện với em là Thuý Vân muốn trao duyên mình cho em với Kim Trọng. Để được em chấp nhận thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thuý Kiều nhờ cậy một cách chân tình:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lại cho chị lạy em sẽ thưa.

Thuý Kiều đã sử dụng từ ngữ rất khéo léo và vô cùng cẩn thận nhằm có được kết quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng khá hiểu cho tình thế của Thuý Vân, đây là sự việc quá bất ngờ với Thuý Vân, đó là điều không phải dễ có thể tha thứ. Là cậy mà không phải bất cứ từ ngữ nào cả, cậy gửi niềm tin và lòng mong mỏi được đến với em. Chịu lời là nhận làm một việc với sự gượng ép, nàng hiểu cho tình cảm của Thuý Vân khi phải lắng nghe từng điều mình sắp nói. Cặp từ lạy, thưa tuy nhìn có vẻ hợp lý trong xã hội ngày nay thì chị làm sao mà lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lí trong quan hệ người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách sử dụng từ này đã đặt Thuý Vân vào tình thế khó lòng có thể từ chối được nhiều sự trớ trêu và nghịch cảnh sẽ đến.

Với người em Cô đã đưa ra lý giải cho tình thế trớ trêu của mình: “Kể từ khi gặp chàng Kim/Khi ngày cầu cưới, khi đêm chén thề/Sự gì bão táp đợi chờ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc tới chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng trong lòng Kiều cũng quặn đau đớn khi những hình ảnh tái hiện lại tình yêu đôi lứa được đề cập như: quạt cưới – trao quạt để tỏ ý nguyện trăm năm, chén thề – mời rượu thề nguyền thiên thuỷ. Với lời hứa thề nguyện, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc trăm năm ai ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên dang dở. Hai câu thơ sau đã chỉ ra lý do khiến Thuý Kiều phải bất hiếu. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình nên Thuý Kiều lúc này phải đứng giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, bỏ chữ hiếu thì nàng giữ tình, lời hứa thề với Kim Trọng, còn nếu vẹn chữ tình sẽ lại trở thành người đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải trả ơn sinh thành”.

Xem thêm:  Giải Toán 6 trang 51 Cánh diều

Trong đau đớn, giằng xé nàng cũng rất bản lĩnh, tỉnh táo để đi đến phương án ứng xử hợp lý nhất: “Keo loan nối lại tơ dư cho em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, sử dụng keo loan sẽ bù đắp cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” để nhấn mạnh đến sự đau đớn của Thuý Kiều nhưng cũng cho thấy vẻ đẹp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao đắng cay của chuyện tình duyên này. Kiều cũng tỏ rõ là người cực kỳ hiểu tâm lí và tình thế của Thuý Vân, nếu ở trên là mặc em, coi như gửi gắm, thì câu thơ dưới đây như một lời mong mỏi, thiết tha.

Trong nàng bao giờ cũng thế, đều có linh cảm không tốt cho tương lai của bản thân mình. Cũng với lý lẽ đó Vân không nỡ từ chối lời cầu hôn của mình. Với cách suy luận thông minh, khéo léo đã cho thấy trí tưởng tượng của Thuý Kiều lại có thể đạt được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng. Thay lời nhờ cậy em, Thuý Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thuý Vân và căn dặn chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng luôn được bảo vệ, giữ gìn, mỗi kỉ vật đi kèm với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ lãng quên. Là cái vành cũ Kim Trọng đã trao cho Thuý Kiều, là tấm thiếp – thư với bao lời thương yêu họ dành cho nhau.

Nhưng đó chưa phải đã hết họ vẫn có được nhiều kỷ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và bây giờ Thuý Kiều trao lại tất cả cho em thì nàng trao kỉ vật cũng tương đương với sự trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật luôn có những mâu thuẫn, giằng co giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao tất cả cho em, còn tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của nhau” nên nàng vừa muốn trao lại vừa muốn giữ để giữ lấy chút gì đó cho mình. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, vì trong tình yêu nhu cầu chiếm hữu vô cùng cao, mấy ai có được can đảm khi trao duyên, mà Nàng đã phải làm thế nên hành động muốn giữ lấy chút của chung cho mình là điều dễ hiểu và phù hợp quy luật tâm lí.

Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Thương người mệnh bạc ắt lòng chẳng thể nguôi ngoai”. Thuý Kiều rõ ràng có chút ích kỉ, yếu mềm tuy nhiên bên trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng vô cùng sâu đậm và trong khoảnh khắc trao duyên này nàng thực sự đau đớn, hụt hẫng, tổn thương. Trao kỉ vật đau đớn, mất mát bao nhiêu thì những lời căn dặn chuyện mai sau cũng xót xa hơn:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.

Sau này, mỗi khi thắp nhang hay chơi đàn thì linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng lại mong Thuý Vân hãy lấy giọt nước mà tha thứ cho chị “rưới thêm chút nước cho người ngã oan”. Ta thấy rằng ở bất kì ai trong Kiều cũng đều có khát khao hạnh phúc, sum họp: Hồn vẫn còn lời thề/Yêu thân nàng, đền đầm trúc mai. Dẫu nàng có bị vùi dập thịt tan xương nát nhưng lòng cũng lời thề với Kim Trọng. Hàn gắn khi Kim Trọng và Thuý Vân được hưởng hạnh phúc thì Thuý Kiều cũng sẽ trở về để cùng hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy tâm trạng nuối tiếc và đau đớn của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu đậm nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với tâm trạng đau đớn, tiếc nuối: tình yêu dang dở, đổ vỡ, vĩnh viễn không thể nào hoà giải.

Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là những đổ vỡ của tình yêu cũng là nỗi tan nát trong cõi lòng Thuý Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi buồn số phận:

Hai từ ấy, chỉ trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời kêu da diết, day dứt và sự đau đớn đến tận cùng cuộc đời. Câu kết là lời tạ lỗi và than oán của Thuý Kiều “Thôi thôi thiếp đã bỏ chàng từ đây”.

Với kỹ thuật thể hiện nội tâm tinh tế cùng việc kết hợp hài hoà nhiều hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng và cảm xúc của Thuý Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch số phận của người đàn bà tài hoa, bạc mệnh trong xã hội xưa, góp phần tôn vinh, ca ngợi nét đẹp của Thuý Kiều.

Xem thêm: Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên của Nguyễn Du hay nhất

5. Giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên:

5.1. Giá trị nội dung:

Đoạn văn thể hiện bi kịch tình yêu và số phận éo le của Thuý Kiều khi cô dốc lòng trả hết nợ Thuý Vân mối tình đầu tiên. Lời khẩn cầu đầy đau đớn khiến kiều như chết đứng. Thế nhưng, trong hoàn cảnh đó, Kiều không còn sự chọn lựa nào khác tốt đẹp hơn nữa.

Nhân cách cao cả ấy được thể hiện rõ ràng bằng việc hy sinh hạnh phúc cá nhân để mất đi chính nàng, bỏ đi chuyện tình đẹp của mình với Kim Trọng nhằm đổi lại hạnh phúc cùng cuộc sống yên bình cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, Kiều buộc lòng phải lựa chọn chữ “hiếu” bởi nàng không thể nào ngước mắt trông cha cùng em mình cho tới chết được.

5.2. Giá trị nghệ thuật

Thể thơ lúc bát của dân tộc, giàu tình cảm cộng với lối ngắt nhịp nhiều ẩn ý, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình ảnh của tâm tư, của các sự giằng xé trong suy nghĩ con người khi trao duyên.

Bên cạnh đó là các biện pháp ẩn dụ, điệp từ và kết hợp với một số thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí dằn vặt, giằng xé, đau đớn tột cùng thông qua từng lời thơ khéo léo.